Các trường hợp vi phạm nghiêm trọng tố tụng hình sự

Các trường hợp vi phạm nghiêm trọng tố tụng hình sự.
Trong 10 tháng đầu năm 2016 Tòa án tỉnh đã xét xử phúc thẩm 195 vụ 279 bc với kết quả Giữ nguyên án sơ thẩm 131 vụ 186 bc (tỷ lệ 66,67% số bc đã xét xử); Hủy án để điều tra, xét xử lại3 vụ 3 bc (tỷ lệ 1,08 %);Chuyển án Treo 6 vụ 7 bc (tỷ lệ 2,51 %);Sửa án sơ thẩm 55 vụ 83 bc (tỷ lệ 29,75 %) gồm:Giảm hình phạt 38 vụ 57 bc;Giảm hình phạt và sửa điểm khoản 1 vụ 1 bc; Miễn trách nhiệm hình sự 3 vụ 5 bc; chuyển Cải tạo không giam giữ 1 vụ 2 bc; Đổi tội danh và giảm hình phạt 1 vụ 1 bc; chuyển án Treo sang tù giam 2 vụ 2 bc; chuyển tù giam sang Phạt tiền 2 vụ 2 bc; Tăng bồi thường 2 vụ 4 bc; Tăng hình phạt và sửa điểm khoản 1 vụ 5 bc; Tăng hình phạt 4 vụ 4 bc). Vấn đề đặt ra là phúc thẩm hủy, sửa án sơ thẩm do chấp nhận kháng nghị, kháng cáo nhưng cũng có trường hợp không chấp nhận do không có vi phạm hoặc vi phạm không đáng để hủy, sửa án. Vậy như thế nào là có sự vi phạm thủ tục tố tụng hình sự?

Tại mục 4.4 Phần I Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05-11-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có quy định:“Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trường hợp Bộ luật Tố tụng hình sự quy định bắt buộc phải tiến hành hoặc tiến hành thủ tục đó, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bỏ qua hoặc thực hiện không đúng, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện”.Khái niệm này đã chỉ rõ 4 đặc điểm về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng gồm: 1. Phải có hành vi không thực hiện những quy định bắt buộc trong Bộ luật Tố tụng hình sự khi tiến hành tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; 2. Có hành vi thực hiện nhưng thực hiện không đúng theo trình tự, thủ tục đã quy định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; 3. Các hành vi trên phải xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự…; 4. Việc bỏ qua hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ thủ tục làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện (như đối với các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc bị truy tố ở khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bắt buộc phải chỉ định Luật sư, nhưng bỏ qua không thực hiện là xâm phạm nghiêm trọng đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được pháp luật quy định).

Những vi phạm thuộc các trường hợp trên đều coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và phải được điều tra, truy tố lại hoặc xét xử lại nên Tòa phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm; còn những vi phạm ngoài phạm vi khái niệm này thì được coi là những vi phạm tố tụng không nghiêm trọng và chỉ thực hiện việc kiến nghị sửa chữa, khắc phục(như vi phạm về thời hạn điều tra, thời hạn xét xử …cũng là vi phạm tố tụng nhưng không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng).Những trường hợp được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự như:
1) Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của BLTTHS phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng đã không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;
2) Không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can, bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của BLTTHS;
3) Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
4) Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của BLTTHS;
5) Nhập vụ án hoặc tách vụ án không có căn cứ và trái với quy định tại Điều 117 của BLTTHS;
6) Không giao các lệnh, quyết định tố tụng cho bị can, bị cáo theo đúng quy định của pháp luật xâm phạm đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo;
7) Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của người có hành vi phạm tội (tuổi, tiền án, tiền sự của bị can, bị cáo);
8) Không có người phiên dịch cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc họ là người câm, điếc theo quy định tại Điều 61 của BLTTHS;
9) Không từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng trong các trường hợp quy định tại Điều 42, Điều 60 và Điều 61 của BLTTHS;
10) Việc điều tra, thu thập chứng cứ quan trọng đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;
11) Chứng cứ, tài liệu quan trọng đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt làm sai lệch hồ sơ vụ án;
12) Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền, trừ trường hợp cơ quan có thẩm quyền phân công điều tra vụ án cụ thể;
13) Có căn cứ để xác định có việc mớm cung, bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;
14) Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của họ.
Đối với trường hợp Tòa án huyện đã áp dụng đúng điểm, khoản, điều luật của Bộ luật hình sự nhưng khi quyết định hình phạt lại xử quá nhẹ hoặc cho hưởng án Treo thì không thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và Tòa phúc thẩm không hủy án trong trường hợp này; tuy nhiên, việc xử phạt quá nhẹ hoặc cho hưởng án Treo không đúng là đã có việc đánh giá và áp dụng không đúng, không đầy đủ các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ cũng như việc cho hưởng án Treo không đúng với các điều kiện do pháp luật quy định nên Tòa phúc thẩm có quyền sửa án sơ thẩm không cho bị cáo hưởng án Treo các trường hợp như: Viện kiểm sát kháng nghị yêu cầu tăng hình phạt hoặc không cho bị cáo hưởng án Treo hoặc vừa kháng nghị yêu cầu tăng hình phạt, vừa không cho bị cáo được hưởng án Treo, nếu có căn cứ thì Tòa phúc thẩm chấp nhận kháng nghị;. Khi người bị hại kháng cáo vừa yêu cầu tăng hình phạt, vừa yêu cầu không cho bị cáo hưởng án Treo, nếu có căn cứ thì Tòa phúc thẩm chấp nhận kháng cáo; nhưng nếu người bị hại chỉ kháng cáo yêu cầu không cho hưởng án Treo thì không phải là kháng cáo tăng hình phạt, không thuộc phạm vi quyền kháng cáo của người bị hại (Điều 51 BLTTHS)nên kháng cáo không hợp pháp, không được chấp nhận.

Nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giải quyết án hình sự và kháng nghị phúc thẩm, các Kiểm sát viên cần nắm vững, thấm nhuần các quy định trên của pháp luật hiện hành, góp phần đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới.

theo vksdongnai.gov.vn

» Luật sư tư vấn luật hình sự