Tư vấn Tố tụng hình sự vụ án cố ý gây thương tích
I/ Về thủ tục Tố tụng:
Quá trình điều tra, truy tố từ khi khởi tố vụ án và khởi tố bị can tới nay, theo bị cáo N và bố đẻ N ông H, cán bộ điều tra mời N và ông H lên cơ quan điều tra chỉ biết ký vào những văn bản do cán bộ điều tra viết sẵn, không đọc nội dung biên bản và không biết ký vào giấy tờ gì (?!) Vi phạm qui định tại khoản 6, Điều 126; Khoản 2, Điều 131 BL TTHS. Bị cáo N không nhận được kết luận điều tra (khoản 4, Điều 162 BL TTHS); không nhận được Cáo trạng của Viện kiểm sát (Khoản 1, Điều 166 BL TTHS). Tuy nhiên. Khi hồ sơ đã chuyển sang Tòa án quận T. H trên hồ sơ vụ án vẫn thể hiện việc N đã ký, nhận các quyết định, kết luận điều tra và nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát và các văn bản khác có liên quan trong giai đoạn điều tra, truy tố.
Giấy chứng nhận thương tích của Bệnh viện A lập đối với bị hại Hồ V. N, bị can, bị cáo và người nhà của họ không được biết nội dung của Giấy chứng nhận thương tích do đó không có điều kiện để khiếu nại;
Về bản Giám định pháp y của bị hại Hồ V. N số 514/TTPY ngày 23/9/2013.
Khi ra bản Kết luận giám định pháp y, người giám định (Qui định tại điều 60 BLTTHS) chưa tìm hiểu và thực hiện qui định tại: a/ Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng phải giám định; 2/ yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc kết luận. Tham dự hỏi cung, lấy lời khai và đặt câu hỏi… Có bản kết luận giám định nhưng cán bộ điều tra bưng bít thông tin không cho bị can biết nên bi can không thể tiến hành thực hiện khiếu nại kết luận giám định theo điểm h, khoản 2, Điều 49 BL TTHS; Nội dung kết luận giám định căn cứ vào lời khai của bị hại Hồ V. N?! và giấy chứng nhận thương tích của bệnh viện A ngày 27/8/2013 là chưa chính xác và đảm bảo khách quan.
Sau khi Luật sư sao chup hồ sơ vụ án bị can mới biết nội dung của Giấy chứng nhận thương tích; bản kết luận giám định của bị hại Hồ V. N. Kết luận của bản giám định tính theo phương pháp cộng lùi, tổn hại sức khỏe 32%. Do đó, bản kết luận giám định thiếu căn cứ pháp lý và chưa đảm bảo tính chính xác của hồ sơ vụ án.
II/ Lời khai của bị cáo Nguyễn H. N và bị hại H. N, người liên quan:
1/ Lời khai của bị cáo Nguyễn H.N:
Lời khai của bị cáo Nguyễn H.N không trùng khớp với các nội dung, tình tiết và các thương tích của bị hại Hồ V.N theo kết luận về thương tích của bản giám định pháp y. Và không thể lấy kết quả bản kết luận giám định 32% thương tật của bị hại để gán ghép cho bị cáo N gây nên.
N khai nhận có vụt anh Hồ V. N một cái từ trên xuống dưới nhưng không xác định được vị trí trúng vào đâu.
Với lời khai trên, chúng tôi thấy bản kết luận giám định tính theo phương pháp cộng dồn thương tích 32% là thiếu căn cứ và suy diễn và không thể khẳng định thương tích đó do Nam gây nên.
2/ Lời khai của bị hại Hồ V. N.
Mâu thuẫn trong lời khai của bị hại:
Về hung khí không thống nhất, số lần bị đánh nhiều mâu thuẫn: dùng
1/ dao, tuýp sắt (BL 117) ;
2/ ống tuýp và mã tấu (BL 118).Lúc đó tôi đang nằm trong lán thì bất ngờ người lái xe tải cãi nhau với tôi trước đó dùng ống tuýp vụt liên tiếp vào đầu, vào lưng và vào tay tôi (BL 118). 3/ Họ dung Tuýp sắt và dao tông;
4/ Tôi chỉ xác định được người lái xa 29M-3913 là người đánh tôi ở một cái đầu tiên trúng vào đỉnh đầu bên trái. Sau đó anh ta có đánh tôi hay không tôi không xác định được (BL 123). 5/Có 4-5 người cầm tuýp sắt (BL 125)
Như vây, Lời khai tại BL 118 mâu thuẫn với lời khai tại BL 123 dùng ống tuýp vụt liên tiếp vào đầu, vào lưng và vào tay tôi >< lái xa 29M-3913 là người đánh tôi một cái đầu tiên trúng vào đỉnh đầu bên trái. Bị hại khẳng định giơ tay lên đỡ bị đánh vào tay trái (BL 121)
3/ Người liên quan Phạm T. T (lái xe):
T khai nhận khi vào hiện trường chỉ nhìn thấy 4 người cửu vạn đang “cầm xẻng” đứng ở đó, ngoài ra có một người đàn ông và hai người phụ nữ bế trẻ con đứng ở đó.
Như vậy, lời khai của T. T và của bị cáo N phù hợp với số người có mặt tại hiện trường. Và mâu thuẫn với lời khai của bị hại Hồ V. N.
Tùng khai: 04 người cửu vạn tay cầm xẻng xúc đất đứng đó; N khai: không có xẻng xúc đất.
4/ Lời khai của bị hại Hồ V.B (cháu ruột bị hại Hồ V. N)
– Mâu thuẫn về hung khí với lời khai của bị Hại Hồ V.B – Mâu thuẫn trong chính những lời khai của Hồ V.B về hung khí: BL 104, họ cầm tuýp, dao tông dài 50cm đến 60cm, bản lưới dao rộng khoảng 02cm, 01 người cầm Dao dài 1m; BL 108, họ cầm tuýp sắt, gậy gỗ; BL 109 tôi không nhìn thấy ai dùng dao, kiếm gì cả; BL 111, Có một người cầm dao trên tay, 1 người cầm đao. Còn tất cả dùng ống tuýp trong đó có người lái xe.
– Mâu thuẫn trong việc Bằng nhìn thấy lái xe 2911-3913 đánh N: (BL 109) những người đó có người dùng tuýp sắt, có người dùng gậy gỗ đánh chúng tôi… tôi không nhìn thấy ai dùng dao kiếm gì. Tôi nhìn thấy người thanh niên lái xe 2911-3913 cầm một cây tuýp sắt loại 20 dài khoảng chạy vào đánh chú N cái đầu tiên theo chiều từ trên xuống nhưng tôi không xác định được trúng vào đâu vì lúc đó tôi đã bỏ chạy. Hồ V. B đã bỏ chạy nhưng vẫn nhìn thấy chú N bị đánh (???)
5/ Lời khai của Nguyễn V.H (Ph), người liên quan:
– Về hung khí mâu thuẫn.
– Diến biến sự việc: Không rõ
6/ Lời khai của Lê V. T, người liên quan:
– Lời khai của T về hung khí có mâu thuẫn.
– Lời khai của T mâu thuẫn vơí lời khai của N: (Tuyên BL 150-151) Thấy vậy tôi đang ngồi dưới chiếu liền đứng dậy thì nhận ra người lái xe 29M-3913 lúc trước hỏi anh Nghiệp tay cầm một cây tuýp sắt chạy vào đánh anh N vào đầu, tay, chân anh N đầu tiên. (N BL 123) lái xa 29M-3913 là người đánh tôi một cái đầu tiên trúng vào đỉnh đầu bên trái.
7/ Lời khai của Lê T. M, nhân chứng:
– Chỉ xác định xe thứ nhất có một tốp thanh niên khoảng 4 -5 người từ trên xe nhảy xuống tay cầm tuýp sắt xông vào đánh mọi người, không biết cụ thể ai đánh.
8/ Lời khai của Nguyễn T.N, nhân chứng:
Không xác định được cụ thể ai đánh N Lời khai mâu thuẫn:
– Tai thời điểm xảy ra vụ việc N không có mặt tại hiện trường mà biết sự việc do chồng kể lại. Tối ngày 12/8/2013 tôi ở cùng mẹ chồng, cùng hai con tôi ở quê nhà thôn Tràng Quan, xã Tràng Quan, Đông Hưng, Thái Bình. Sáng hôm sau mới nhận được tin. (BL 158) mâu thuẫn với lời khai:
– Tôi thấy có ba đến bốn người đi trên chiếc xe thứ nhất đến đánh anh N. Những người còn lại chỉ đứng bên ngoài. Họ dùng tuýp sắt dài khoảng một mét và gậy đánh anh N (BL 161, 162)
9/ Lời khai của Nguyễn X. Kh, nhân chứng:
– Lời khai không thể hiện cụ thể ai đánh bị hại Hồ V. N, mà là một nhóm thanh niên đánh N
– Khai về hung khí mâu thuẫn: mang theo tuýp nước và kiếm xông thẳng vào(BL 166) >< Từ trên chiếc xe 29M-3913 có 05 nam thanh niên trên 20 tuổi nhảy xuống tay cầm tuýp nước và mốt số loại hung khí khác (tôi không xác định được đó là loại hung khí gì) (BL168) và BL 171, 172.
Căn cứ hố sơ vụ án, phần kết luận Cáo trạng khẳng định Nguyễn H. N gây thương tích cho Hồ V. N 32% là hồ đồ và suy diễn, thiếu căn cứ pháp lý, không phù hợp với hồ sơ vụ án đã phân tích, đánh giá nêu trên. Phần thương tích 32% của bị hại thuộc về trách nhiệm của Trung tâm pháp y (Sở y tế Hà Nội) và Bệnh viện A.
III. Vật chứng: Không có
IV. Kiến nghị:
Văn phòng luật sư kiến nghị Tòa án nhân dân quận T. H thẩm phán được phân công xét xử:
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án nêu trên theo điểm b, Điều 176 BL TTHS.
Lý do kiến nghị trả hồ sơ:
– Phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
– Bị cáo không thừa nhận vụt vào đầu và tay của bị hại, thực tế bị hại bị đa chấn thương (chấn thương này không phải do bị cáo gây ra);
– Quá trình điều tra, các chứng cứ chưa chứng minh được bị cáo gây ra thương tích 32% cho bị hại;
– Các lời khai của bị cáo, bị hại, nhân chứng, người liên quan mâu thuẫn nhau;
– Nội dung bản Cáo trạng không phù hợp với các lời khai của bị cáo, bị hại, nhân chứng, người liên quan.
Văn phòng luật sư đề nghị Tòa án nhân dân quận T. H, thẩm phán được phân công xét xử nghiên cứu để đưa ra quyết định đúng đắn đối với hồ sơ vụ án, tránh oan, sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
theo luatsutrankhacthanh