Dịch vụ xuất khẩu phần mềm được luật quy định như thế nào?
Doanh nghiệp hỏi: Chúng tôi là công ty phần mềm tại Việt Nam, niện nay chúng tôi có một số phần mềm (truy cập qua đường truyền internet) đã mua server và lisence từ đối tác nước ngoài.
Lisence được sử dụng cho 500 máy (user) (account và Password).
Chúng tôi muốn cung cấp một số user cho khách hàng ở Đài Loan có thể truy cập để trao đổi thông tin, việc cung cấp này không được tính phí.
Nhờ luật sư tư vấn giúp trường hợp này có được coi là xuất khẩu phần mềm hay không?
Việc cấp user như thế có bị giới hạn gì bởi quy định của pháp luật hay không? (Hợp đồng mua phần mềm không có giới hạn gì).
Luật sư trả lời: Theo quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 (khoản 1, Điều 28), xuất khẩu là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Do vậy, trong trường hợp này, doanh nghiệp cung cấp phần mềm cho User ở nước ngoài sử dụng sẽ được hiểu là việc xuất khẩu phần mềm ra nước ngoài qua đường internet.
Trong trường hợp hợp đồng license phần mềm không có giới hạn gì về phạm vi lãnh thổ được phép sử dụng của phần mềm cũng như đối với các end user thì việc xuất khẩu phần mềm nêu trên, tại thời điểm hiện nay, không có bất kỳ hạn chế nào.
Các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về xuất khẩu phần mềm, license phần mềm được quy định rải rác ở rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, bao gồm Bộ luật dân sự năm 2005, Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật sửa đổi bổ sung Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 và các nghị định, thông tư, công văn hướng dẫn